Thế Giới Bên Kia (A WORLD BEYOND) -2
(Phần 2)
Chúng ta dang tay chào đón người mới đến với tất cả tình thương. Lúc đầu họ
thường ngạc nhiên, nếu trước kia họ không học hỏi và tham thiền. Họ đói họ khác
thì chúng tôi cho ăn cho uống tuy đó chỉ là tưởng tượng nhưng họ coi là thật vì
vẫn tưởng là còn xác thân. Dần dần quen rồi, họ mới thấy rằng không cần ăn uống
nữa. Chúng tôi để mặc họ muốn làm gì tùy ý, nhưng sẵn sàng giúp họ.
Người tự sát tưởng rằng hủy thân đi là hết, không biết rằng hồn vẫn còn, và
như thế vấn-đề vẫn còn, lại thêm khó khăn hơn nữa. Trong cõi vô hình không giải
quyết được vấn đề trần gian, phải đợi sang đời sau, biết đến bao giờ? Linh hồn
rất đau khổ, tức giận cho mình đã phí mất một đời, khiến cho đời sau càng thêm
nặng nợ và còn mang cái tội là đã hủy diệt sự sống mà Thượng Ðế đã ban cho,
không ai được quyền lấy đi.
Kẻ sát nhân cũng rất đau khổ, không những đau khổ vì không thể trả lại đời
sống cho nạn nhân của y nay cùng ở với y, mà còn đau khổ vì đã cản trở nạn nhân
trả nghiệp quả riêng của họ. Hai hạng người nầy tự mình bị dày vò cực khổ vô
cùng tro ng thời gian rất lâu chờ đợi để được sang đời khác đền bù tội lỗi.
Những người tuy không có tội nặng nhưng rất khó thích nghi, là những người
không tin rằng có đời sống vô hình. Người vô tín-ngưỡng từ trước vẫn nghĩ rằng
chết rồi là hết, nên không sẵn sàng để đón nhận hoàn cảnh bất ngờ, nay rất ngạc
nhiên, tưởng rằng những người và cảnh vật trông thấy quanh y chỉ là ảo ảnh, do y
tưởng tượng. Trong lúc sống không tử tế với ai, tự nghĩ không có bổn phận giúp
đở ai. Nay y phải ở chung với đám người cũng ích kỷ như y, nhưng thô-lỗ cục-cằn
mà y coi là hạ cấp, muốn thoát ra khỏi mà không được, rất là khổ sở.
Người còn tha thiết đến đời vật chất, đến những người thân, đến tiền của
công việc còn bỏ lại, thì tâm trí loạn động nhiều, cần một thời gian dài và nhờ
những linh hồn khác giúp đỡ, mới dần dần bỏ được sợi dây ràng buộc y với đời
sống trên trần. Rồi y phải kiểm điểm những lầm lỗi trước và tìm cơ hội tái sinh
để chuộc lại.
Trước khi lựa chọn nơi tái sinh, tâm linh phải tự kiểm điểm xem những món nợ
nào cần trả trước và cần có những đức tính nào để tiến. Rồi phải tìm xem hoàn
cảnh nào thích hợp với điều kiện của mình. Nếu y muốn học yêu thương, thì phải
chọn nơi nào đức tính ấy không có nhiều. Thường y chọn cha mẹ ở những người xưa
kia y đã biết hoặc có sự liên lạc về nhân quả. Rồi y chọn phái nam hay nữ để có
thể tiến được nhiều hơn. Nếu nhiều linh hồn trình độ ngang nhau muốn đầu thai và
cùng một nơi, thì hồn nào thích hợp hơn cả sẽ được lựa chọn, sự lựa chọn nầy có
thể ví như máy tính thiên tạo tự động ghi nhận và ấn định tư cách của mỗi linh
hồn.
Linh hồn được trúng tuyển bay lơ-lững gần cha mẹ, và khi ngày giờ đã đến,
nhập vào bào thai hoặc đúng lúc hoặc ngay trước hay ngay sau khi lâm sản. Những
linh hồn bị loại đi tìm nơi khác thích hợp với mình.
Trường hợp đứa trẻ mới sinh ra đã bị tật nguyền, là gì linh hồn đã chọn thân
hình bất toàn ấy, thay vì một thân hình đầy đủ, để trả nợ mau chóng hơn. Những
chướng ngại trong đời vật chất càng nhiều, thì linh hồn tiến hóa càng nhanh,
nhanh hơn là những người có đủ tiện nghi trên đời. Càng tiến nhanh trên phương
diện tâm linh, thì càng ít phải trở lại thân xác thịt.
Thường thường linh hồn trước kia thuộc phái nào, nam hay nữ thì lại thác
sinh vào phái ấy. Nhưng cũng có khi lựa chọn phái khác để học hỏi, như một người
tính vũ phu muốn sinh ra phái nữ để học tính dịu-dàng, một phụ nữ nhút-nhát sinh
ra phái nam để học can đảm. Trường hợp một bà bị tê liệt nửa người và run rẩy,
chúng tôi nhận thấy rằng trong một tiến thân, người ấy ở thành La-Mã là một tên
lính dữ tợn ưa làm cho kẻ khác run sợ; Y đã thả thú dữ ra để cho nạn nhân sợ hãi
trước khi bị cắn xé. Nay để đền tội, y phải sinh ra làm một người đàn bà yếu ớt
và run rẩy.
Những linh hồn đã tiến hóa đến một trình độ tương đối cao, đều hộp nhau để
học hỏi. Không có lể nghi như ở trần gian hộp ngày chúa nhật tán dương Thượng
Ðế. Những linh hồn nầy trong đời vật chất đã tiến hóa, đã tham thiền để hòa đồng
với Vũ -trụ. Họ đã không uổng phí thời giờ trên mặt đất, nay họ có thể tiến hóa
nhanh chóng hơn. Nhờ bước tiến nhanh, những lần phải luân hồi sau nầy sẽ giảm
bớt đi. Có ở trình độ nầy mới biết cái cảm giác thích thú và thỏa mãn được tiếp
tục học hỏi về tâm linh khi bước sang cõi nầy. Những người không tin và nhạo
báng rất đáng thương, họ không bao giờ biết cảm giác khoái lạc ấy.
Những linh hồn đã tiến hóa luôn luôn hoạt động. Một số trong chúng tôi học
hỏi để tiếp tục tiến hóa, một số dạy những linh hồn mới đến, một số nữa tham
thiền và cầu nguyện mong chuộc tội lỗi đã qua. Ðừng có điên rồ tưởng rằng chúng
tôi lìa bỏ xác phàm bước sang thế giới tâm linh là chúng tôi gần thiên đường hơn
và tự nhiên được hợp nhất với Thượng Ðế. Muốn đạt tới sự hợp nhất ấy, phải trải
qua nhiều triệu triệu năm cố gắng đặc biệt theo luật Thượng Ðế và giúp đở người
khác trên đường thăng tiến. Mỗi việc lành ta làm cho người khác mà không cầu báo
là một lần làm thêm sáng tỏ và rút ngắn bớt con đường ấy.
Tâm bố thí không giới hạn, không mong báo đáp, là bật thang lên thành quả
tâm linh. Ðừng cho tay trái biết việc làm của tay phải. Hãy bố thí trong thầm
lặng, đừng nói cho ai biết, nên tìm cái vui thú trong việc làm hơn là trong lời
nói. Nếu người đời đã khen, đã ca tụng rồi, thì còn mong gì Thượng Ðế khen
thưởng nữa. Ta không mong ai ca ngợi khi ta tự giúp ta, tại sao ta lại mong ca
ngợi khi ta giúp người khác, khi người ấy cũng là một phần chúng ta, một phần
của Thượng Ðế!
Bên trong mỗi chúng ta đều có trí sáng suốt hiểu rõ chân lý. Chúng ta đều có
khả năng tiến tới cái gọi là Thượng Chủng, nghĩa là giống thượng đẳng (super
race). Xưa kia chúng ta là một phần của Thượng Chủng, nhưng về sau lòng tham
lam, ích kỷ, thù hận và nhiều ý nghĩ tồi tệ khác dần dần thâm nhập vào những
người mang thân xác thịt.
Tiềm thức chúng ta chứa chất tất cả mọi điều hiểu biết mà chúng ta thu thập
từ khi bắt đầu được cấu tạo. Nó là cái kho tài liệu vĩ đại nhất chưa bao giờ
thấy, nhưng trong khi còn mang thân xác thịt thì không thể mở kho ấy bằng cách
thường. Qua những giấc mơ và lúc tham thiền, hoặc nhờ thôi miên đúng phép, ta
cũng chỉ có thể mở được một phần mà thôi. Nhưng ở đây, trong cõi vô hình, tất cả
kho ấy trong đời quá khứ luôn luôn bày ra trước mắt, và nếu tâm linh ta có khả
năng hơn, ta có thể thấy được các đời trước nữa.
Có rất nhiều trường dạy tiến hóa tùy theo trình độ của linh hồn. Chúng ta
được tạo nên do một phần của Thượng Ðế, có đủ tính chất của Thượng Ðế, vậy muốn
hoàn tất cuộc hành trình của chúng ta và trở về với Thượng Ðế, thì phải được
thấm nhuần triết lý của Vũ-trụ và hiểu biết luật lệ của Vũ-trụ để được hòa đồng
với Tạo-Hóa là cha chúng ta.
Ông Ford nói đến hai phần tự tin là mình hoàn toàn, đã đạt tới đức hạnh bực
Thánh.
Một người cho rằng mình đã sẵn-sàng để được vào hàng Thánh, và mong được
Thánh Gabried dẫn đến ngay vàng của Thượng Ðế ngay khi bước sang cõi vô hình. Y
khoe với mọi người rằng y không hề làm gì lầm lỗi, không bao giờ trộm cắp, lừa
dối, tà dâm. Y làm việc trong nhà thờ và dự vào nhiều việc từ thiện, y chắc rằng
đời sống nầy là đời cuối cùng trước khi về với Thượng Ðế ở trên trời. Tâm y nhẹ
nhàng khi bước qua bên nầy, và tỉnh giậy thấy quanh mình phong cảnh ngoạn mục. Y
thấy một đám người áo trắng đi đến tưởng rằng họ đến đón y, nhưng họ đi thẳng.
Lại thấy lũ trẻ chơi đùa, y gọi chúng hỏi thánh Gabried ở đâu, chúng nói chúng
chẳng gặp thánh thần nào cả. Y tìm đến một ông già râu bạc ngồi trong lều, y hỏi
đường đi tìm thánh Gabried, Ông già nói: "con đường nằm ở bên trong"
Y nghĩ là một đường hầm, nhưng tìm không thấy, y lại hỏi: "tại sao không ai
chỉ đường cho tôi đến Thượng Ðế? Tôi có việc cần gặp Thượng Ðế, Thượng Ðế ở
đâu?".
Ông già lại nói: "hãy nhìn vào bên trong"
Y nhìn quanh trong lều chẳng thấy gì, bực mình nói: "đừng có đùa bỡn, tôi
cần đến Thiên đình."
Ông già nói rõ: "Tôi biết , nên tôi đã bảo anh hãy nhìn vào bên trong anh.
Ai nấy đều phải tự xét đoán mình trước khi gặp Ðức Sáng Tạo.
- Nhưng tôi không làm gì lầm lỗi cả, đời tôi trong sạch nay tôi sẵn sàng gặp
Thượng Ðế.
- Còn tánh tự phụ của anh thì sao? anh lấy làm chắc rằng anh không lầm lỗi?
- Tôi chắc, vì cả đời tôi không làm gì trái cả. Tôi đã cố gắng làm phận sự,
và nay tôi chờ được khen thưởng trên trời.
Bấy giờ ông già nắm tay y nói: "con chưa thấy sao con? Con đã nghĩ đến linh
hồn con nhiều quá, mà không nghĩ đến làm bớt đau khổ cho những người không bằng
con. Con đã bao giờ hy sinh miếng bánh của con cho kẻ ăn mày đói ngồi ở đầu
đường chưa? Con có lúc nào bớt thì giờ để nghe những nỗi khó khăn của người dưới
quyền con không? Con có bao giờ nghĩ đến làm cho tâm hồn vợ con được thoải mái
không? Nay vợ con được sung sướng hơn khi con còn sống, vì không phải bị con bắt
phải kính trọng con như một ông thánh. Hãy nhìn xem vợ con đang làm gì."
Lúc ấy y nhìn thấy nhà y ở California. Một người đàn ông ngồi ruỗi dài trên
ghế của y. Vợ y trông khỏe mạnh vui vẻ. Người kia nói: "Chúng ta sẽ được hoàn
toàn hạnh phúc.
- Phải sau khi mãn tang.
- Sau lâu thế.
- Sợ người ta chê cười. Còn John thì chắc y chẳng để ý gì đến dưới nầy nữa,
chắc y đương ở trên trời và tìm đến Thượng Ðế. Thật là khó kinh khủng mà sống
với một người tự cho mình là ông thánh."
Bấy giờ y mới nhìn vào nội tâm y và nhận thấy rằng y đã lo tạo cho y trở
thành ông thánh nhiều hơn là phụng sự Thượng Ðế và những người chung quanh. Tệ
hại hơn nữa là y đã được nhiều lời khen ngợi ở thế gian về việc làm của y, nên
không còn gì để đem theo tâm linh nữa. Nay y hiểu rằng chỉ có bố thí và giúp đỡ
trong sự yên lặng vô danh mới được thưởng công trên trời, y đau khổ giận cho y
rằng đời gương mẫu của y đã không giúp ích cho linh hồn y như đã giúp cho đời
vật chất của y. Chi mà khôn g có tình thương, tình thương không vị kỹ, thì những
việc làm của y trong xã hội được khen ngợi nhiều, chỉ là những ngày trống rỗng.
Nay y đã hiểu bí mật của sự cứu rỗi là bố thí không vị kỷ, đặt quyền lợi người
khác trước quyền lợi của mình, yêu thương v à giúp đở lẫn nhau.
Một người đàn bà cũng tin rằng mình có đủ đức tính của một vị thánh và mong
đợi được đưa thẳng đến gặp Thượng Ðế. Thị thức giậy ở bên nầy và nhìn quanh tìm
cửa bằng ngọc để đi vào tìm thánh Peter. Thị đến một cửa, không đẹp như thị
tưởng, đi vào thấy vườn hoa đẹp nhưng không để ý, chỉ chăm chăm đi gặp Thượng
Ðế. Trên đường thấy có nhiều người cùng đi, thị vượt lên trước họ đến một nơi
cao, chắc rằng trên đó Thượng Ðế đương ngồi chờ thị. Thấy một người cũng leo lên
gần thị, nhận ra bà lão ăn mày trước kia vẫn gặp ở đầu đường, thị tỏ ý khinh bỉ,
chỗ nầy đâu phải là nơi lão được đến! Thấy một người trẻ tuổi mặt sáng, chắc là
một vị thiên thần, thị xin được đưa đến trước Thượng-Ðế. Vị nầy nói: "Nhưng thưa
bà, tất cả chúng ta là Tượng-Ðế" Thị bực mình, vì nói như thế là gồm cả lão ăn
mày bên cạnh thị. Thị nói: "Ðừng có đùa cợt, ông hãy dẫn tôi đến gặp Thượng Ðế".
Bấy giờ đám đông mà thị đã vượt lên trước đã đến nơi vây quanh thị, thị bực
rằng sẽ không được đứng hàng đầu nữa. Người trẻ tuổi nói với tất cả đám đông:
"Quý vị hãy nghe đây, Thượng Ðế ở khắp nơi. Thượng-Ðế là tình thương, quý vị
thương yêu nhau và giúp đở nhau là có Thượng-Ðế trong đó".
Thị bực lắm, hỏi rằng: "Thiên Ðình ở đâu?
- Thiên Ðình ở ngay nơi bà đứng."
Nhưng thị nhìn quanh, chẳng thấy Thiên Ðình đâu cả. Dần dần thị mới hiểu ý,
Thiên Ðình ở ngay nơi thị, quan tòa là thị. Bấy giờ thị nhìn vào nội tâm, mới
thấy rõ sự thật kinh khủng. Trong khi cố gắng một đời sống trong sạch không tội
lỗi, thị chỉ nghĩ đến riêng mình, không bao giờ có một lời an ủi cho người kém
mình, mà lại còn muốn tránh xa sợ họ làm nhơ bẩn cái áo trắng trong của thị. Ðâu
là tình thương người khác? Thượng-Ðế không cần nói, thị cảm thấy câu trả lời
trong tâm thị, thị biết cái tâm của thị hơn ai hết, chính thị là quan tòa của
thị.
Những người đã chết không phải là bay lơ lửng trên không trung. Họ ở ngay
trên mặt đất, không ở đâu khác, vì chỉ có một Vũ-trụ duy nhất. Họ không ngủ trên
giường ta, không ngồi trên ghế ta, nhưng họ hoạt động ngay giữa chúng ta. Họ
cũng đi cùng đường nhưng không bị cản trở về vật chất, không phải đi vòng quanh
những chướng ngại như nhà cửa hay tảng đá. Tuy họ cùng ở với ta, nhưng ta không
thấy họ mà họ vẫn thấy ta và biết được cả ý nghĩ của ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét