Thế Giới Bên Kia (A WORLD BEYOND)-3
(Phần 3)
Khi chúng ta tham thiền là chúng ta được gần Thượng-Ðế, chúng ta gặp
Thượng-Ðế ở trong chúng ta. Càng thiền được nhiều trong cõi hữu hình, thì càng
tiến nhanh trong cõi vô hình. Nên nhớ là khi tham thiền, bắt đầu phải thở cho
sâu, để tống r a những hơi độc tích tụ trong thân hình. Ðọc một câu chú, rồi
nghĩ rằng mình hòa đồng với Vũ-trụ. Hãy tự coi mình là một phần của tạo Vật, của
tinh hoa Thượng-Ðế, hãy quên cá tính mình đi, tưởng tượng như mình với Vũ-trụ
chỉ là một. Sau một thời gian, sẽ cảm thấy mình nhẹ bỗng, tựa hồ như một tâm
linh bay vơ-vẫn trong một bầu trời xa lạ. Hãy thí nghiệm, luôn luôn giữ ý nghĩ
hợp nhất hoàn toàn, chẳng bao lâu sẽ cảm thấy hòa đồng với Tạo Vật. Rồi tiến sâu
hơn, hãy để cho tâm linh Thượng Ðế tràn ngập vào tâm khảm mình. Hãy dành ra ít
nhất 15 hay 20 phút mỗi ngày giữ yên lặng như thế. Hãy đón nhận lời của Thượng
Ðế.
Cầu nguyện khác hẳn với tham thiền. Cầu nguyện là tác động, không phải thụ
động như tham thiền, mong cảm đến trái tim của Thượng-Ðế. Nghĩ điều thiện thì
Thượng Ðế ở kề bên. Hãy cầu nguyện cho một mục tiêu tốt đẹp, không phải cho lợi
riêng m ình. Nên nhớ rằng cầu nguyện để hại người khác, thắng địch thủ, hơn bạn
bè là vô ích.
Khi một linh hồn mong đợi gần Tâm của Thượng-Ðế, nó sẽ nâng cao ý nghĩ đến
độ cảm thấy mình như bay bổng và đầy khoái lạc. Cảm giác mạnh đến nổi quên cả
mình trong thế giới tâm linh, bấy giờ thấy rằng khoái lạc xác thịt không còn có
nghĩa g ì nữa. Rồi từ đó sẽ tiến lên, không phải trở lại đời vật chất nữa. Trên
tầng cao hơn, ta chỉ còn là tâm thức, không còn nghĩ đến cá tính nữa. Tầng nầy
chưa phải là tầng cao nhất, chỉ là một nấc thang trên đường tiến hóa. Chúng ta
đi trong ánh sáng, ánh sá ng của Chân-Lý Vũ-trụ. Cũng không ở luôn mãi đó, mà
tiến mãi đến toàn thiện.
Ông Ford nói đến một người, lúc sống đã học hỏi, hiểu biết và tham thiền
linh hồn thoát xác được sáng suốt ngay. Sau khi chào hỏi bạn bè thân thuộc y
tham thiền trong khi rung động của vũ-trụ tràn ngập y với cảm giác sung sướng lạ
lùng. Y tìm ngay những hồn mới đến, lạc lõng hoặc mê man để giúp đỡ. Y không mất
một giây phút thương tiếc cho cái thân xác đã mất, y biết rằng sẽ gặp lại người
thân trong cõi-vô-hình, y đã để lại mọi việc tốt đẹp trên đời, nay y tiếp tục
tiến hóa. Có nhiều người được như thế, không phải ai nấy đều biết rõ những gì
chờ đón họ, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận mọi điều Thượng Ðế ban cho, và rất vui
mừng rằng vẫn được tiếp tục hoạt động với nhiều việc để làm.
Người nầy sẽ tiến rất nhanh, sẽ sớm có dịp trở lại thân hình khác, hoặc tiến
lên tầng cao hơn. Nếu muốn tiến lên, thì phải học các thầy tiến hóa. Các thầy sẽ
dạy cách thay đổi tần số rung động để dần dần hòa nhịp với với rung động ở tầng
trên. Khi tần số rung động của họ đã cao và lên được tầng trên, thì chúng tôi sẽ
không thấy họ nữa, mặc dù họ vẫn ở đây, họ vẫn thấy chúng tôi, đại-khái cũng như
người trần không thấy chúng tôi mà chúng tôi vẫn thấy người trần. Nhưng nếu họ
muốn thì họ vẫn có thể hạ thấp rung động để cho chúng tôi thấy. Trong đoạn sau,
ông Ford sẽ nói đến những tầng trên rõ ràng hơn.
Ông Ford trước kia đã được lên tầng trên, nhưng tự ý muốn trở lại thế gian
để thực hành những điều đã học hỏi. Vì thế khi ông là mục sư ở trong trại lính,
ông đã trông thấy danh sách những người chết đêm trước khi ông mới ngủ giậy còn
ở trong phòng (xem trang 13) vì đã có khả năng nhận tin tức từ khắp nơi.
Trái lại, một người không tin, lúc sống cho rằng chết là hết không còn gì
nữa, khi mở mắt ra thấy có nhiều người quanh mình khuyên nhủ và giúp đở, lại cho
là ảo-ảnh, là tưởng tượng, không phải thực, nên nhắm mắt lại. Khi mở mắt ra thì
không thấy ai nữa, mà thấy mình rơi vào vực thẩm đen tối, ở trong tình trạng rất
sợ hãi. Tình trạng nầy thường kéo dài rất lâu, đến khi nào lòng tin trở lại, cầu
Thượng Ðế cứu, bấy giờ lại được thấy nhiều người đến giúp đở. Những linh hồn nầy
khi tỉnh ngộ rồi thì cố gắng học hỏi, giúp đỡ những hồn khác và sẽ tiến hóa
nhanh. Còn những hồn cố chấp không tỉnh ngộ thì cứ ở trong cảnh đen tối hàng
ngàn năm.
Kẻ sát nhân cố tình giết hại người khác để thỏa mãn ác ý của mình, thì ở
trong tình trạng như chết một thời gian lâu, đến khi tỉnh giậy thấy mình ở trong
địa ngục mà chính mình đã tạo nên. Không phải là trông thấy quỷ sứ, nhưng thấy
chính mặt y bị biến dạng vì thù hằn, tham lam, ác độc. Y sợ rúm lại tưởng mình
bị quỷ nhập. Y thất đảm khi nhận ra rằng không những y đã bỏ phí một đời không
tiến, mà còn thụt lùi trở lại nhiều đời nữa mới có thể chuộc được tội y. Bấy giờ
y nhớ lại ý muốn của y là vượt qua mọi sự cám dỗ khi y bước vào cuộc đời, khốn
nỗi y đã làm trái ngược với ý muốn ấy.
Linh hồn nầy bị đau khổ trong thời gian rất dài. Ðến khi thất vọng cùng cực,
y rên xiết cầu Thượng-Ðế cứu. Nếu y thực tâm hối hận, những linh hồn khác sẽ đến
giúp y, và dần dần y sẽ tiến lên rất chậm, rất chậm, cho đến khi hiểu biết cái
hình phạt vì đã lấy đi một mạng sống do Thượng Ðế ban cho. Như Lee Oswald đã bắn
John Kennedy, và Jirhan đã bắn Bobby Kennedy, sẽ còn phải đau khổ lâu lắm trong
sự hối hận. Ðến như Hitler thì chẳng khác nào y bị trơ-trọi trên một cù-lao đen
tối không nhà cửa , và sẽ không bao giờ rữa sạch được tội ác của y.
Người tự sát trong một giây phút thất vọng, đã lầm tưởng rằng chết là giải
quyết được vấn đề, không biết rằng đâu có dễ-dàng giải quyết như thế, và chúng
ta không có quyền dập tắt ngọn lửa sống mà Thượng Ðế đã thắp sáng lên. Ðược mang
cái thân xác thịt là đặc-ân Thượng Ðế ban cho để trả nợ nghiệp chướng. Nhiều hồn
khác còn phải chờ đợi để được trở lại làm người, nay ta đã được rồi lại hủy bỏ
cái đặc-ân ấy, thì nghiệp chướng sẽ tăng lên gấp mười, và phải chờ đợi rất lâu
mới lại được đầu thai.
Những nạn nhân bị sát hại không mang mối hận thù kẻ đã hại mình. Ở trong cõi
vô hình mà còn hận thù thì sẽ bị thoái hóa rất nhiều, có khi hàng vạn năm. Họ
hiểu rằng như thế là họ đã trả được nghiệp chướng, trả được tội lỗi quá khứ, và
sẵn sàng tha thứ.
Ông Ford nhắc lại rằng không có tòa án xử tội, ngoại trừ chính lương tâm
chúng ta, lương tâm ấy lại chính là Thượng Ðế. Khi tấm màng che mắt ta không còn
nữa, thì ta thấy rõ đâu là trái đâu là phải. Ta rất vui mừng khi nhận thấy rằng
những việc giúp đở nhỏ mọn, một lá thơ hay một nụ cười an-ủi, những việc mà ta
đã quên, lại giúp ích cho ta tiến hóa nhiều hơn. Trái lại những hành động mà ta
tin rằng có lợi cho ta lại làm cho ta chậm tiến, vì ta đã làm một cách rầm-rộ,
khoa trương, để được hãnh diện, được khen ngợi. Hãy giúp người chỉ vì người ta
cần giúp, tùy theo khả năng của mình, xong rồi quên đi đừng mong cảm ơn và báo
đáp, cũng không cần ai biết cả. Hãy coi mình như một cái giếng, lúc nào cũng
tràn đầy tình thương.
Chỉ có thể chữa bỏ những thói hư tật xấu ở trong đời hữu hình. Ở cõi vô hình
không làm gì được cả vì không có những cám dỗ. Trường học gian khổ là đời vật
chất, có nhiều cám dỗ mà ta phải vượt qua.
Có người lấy làm lạ tại sao có những linh hồn tiến hóa cao luôn luôn giúp đỡ
người khác, lại có những linh hồn cục-cằn không hơn thú vật. Sự đó có thật. Lúc
mới đầu chúng ta đều như nhau, là những tàn lửa của Thượng Ðế, nhưng trải qua
những đời sống trên trái đất, mỗi linh hồn phản ứng với hoàn cảnh một cách khác
nhau. Chớ nên mắc vào thói hư tật xấu, luôn luôn giúp đở người khác, nhớ mục
tiêu là trở về với Thượng Ðế.
Ðừng mong tiến hóa lấy riêng mình, không thể nào có chuyện ấy. Nếu muốn chạy
đua vượt lên trước người khác, thì không bao giờ đến được thượng đỉnh. Bỏ lại
người khác là cách tốt nhất để thục lùi, rồi phải bắt đầu trở lại. Cần phải
thương yêu lẫn nhau, giúp đở người khác cùng tiến với mình.
Tự ta ghi chép lấy vào cuốn sổ của ta. Không có tòa án, không có quan tòa
râu bạc nào, ngoài lương tâm của chính ta, không thể che đậy gì được, không thể
trốn chạy đâu được.
Những tầng cao hơn có nghĩa là những trình độ thức-giác cao hơn, chứ không
phải là ở tầng lớp cao hơn, vì các giới cùng ở một nơi. Muốn được tiến lên tầng
cao, cần nhiều công phu học hỏi, những người ở tầng trên mà muốn xuống tầng dưới
thì rất dễ-dàng. Người ở tầng dưới không thấy được người ở tầng trên, nhưng
người trên thấy rõ người dưới, đại khái cũng như chúng tôi đối với người ở cõi
trần. Không thể lấy lời nói của trần gian để tả trình độ sáng suốt ở mỗi tầng.
Ví như một quả bóng thổi phòng bằng khinh khí, khi còn ở dưới đất là còn trông
thấy và sờ mó được, nhưng khi đã cắt dây thì quả bóng bay lên, cũng như sợi dây
bạc nối hồn với xác, khi chết dây đứt thì hồn lìa khỏi xác. Quả bóng lên cao
trên thượng tầng không khí, người dưới đất không trông thấy nữa, nhưng ở trên
cao vẫn trông thấy ở dưới. Ðó là thí dụ rất thô sơ, nhưng khó nói rõ hơn, vì tâm
chí người ta bị hạn chế, không thể hiểu xa hơn được. Chúng tôi hiện nay ở cõi
trung-giới, còn có liên lạc với đời vật chất, những người ở tầng trên đã đoạn
tuyệt với trần gian.
Chúng tôi học hỏi ở đây, có thể lựa chọn hoặc trở lại luân hồi, hoặc tiến
lên tầng trên. Tầng trên ví như tầng không khí loãng, trong một thời gian không
còn liên lạc với những hồn khác và với cõi trần. Chúng tôi như là bay bổng trong
một bầu khí quyển mà tần số rung động rất cao. Tạm giải thích như vậy, thật ra
không có lời nào tả được. Ở đấy không khí rất mạnh, hay đúng ra là không có
không khí, không có gì che đỡ những tia sáng chói lọi. Chúng tôi phải cố gắng
chịu đựng ở đó, rồi lại học hỏi để tiến xa hơn nữa.
Rồi sau chúng tôi đi qua từ tinh cầu nầy sang tinh cầu khác. Chúng tôi đi
trên mặt tinh cầu như người trần đi trên mặt trái đất, chỉ khác là không còn
thân xác thịt nặng nề. Chúng tôi chỉ còn như là ý nghĩ (theo kinh Phật thì có lẽ
đây là H ữu-tưởng-giới). Lên trên nữa thì chúng tôi chỉ còn là ánh sáng, tuy
nhiên chúng tôi vẫn là chúng tôi, cái ta vẫn còn.
Những tầng trên có thể gọi là tầng thứ ba và tầng thứ bốn, những tầng chỉ
khác nhau về tần số rung động. Chúng tôi phải học hỏi để có thể thích hợp được
với những làn sóng ánh sáng và tiếng động nó mạnh đến độ có thể làm mù hoặc điếc
những người ở cõi trần. Chúng tôi bấy giờ ở trong tình trạng như một chất
dịch-thể, tuy nhiên không phải là một chất lỏng. Chúng tôi được đổ vào cái khuôn
Vũ-trụ "nói thế cho dễ hiểu" và gần như hợp nhất với Vũ-trụ.
Ðó là tầng thứ ba. Tầng thứ bốn là lên ở những tinh cầu khác như Hỏa-tinh,
Thủy-tinh, Mộc-tinh, Kim-tinh, Thổ-tinh..v.v. nhưng không phải là thân vật chất,
mà là trình độ giác-thức cao hơn. Trên những tinh cầu đó cũng có hình thể sinh
vật, nhưng khác hẳn với hình thể trên trái đất, trình độ tiến hóa các sinh vật
ấy cũng khác nhau.
Nếu một linh hồn tội lỗi nhiều kinh khủng đến độ cần phải tới ngàn triệu đời
sống mới chuộc được, thì linh hồn ấy sẽ ở trong tình trạng tuyệt vọng nơi trái
đất nầy (thí dụ như Hitler). Linh hồn ấy có khi phải nhận lấy một thân hình hoàn
toàn khác mà chúng ta ở trái đất không gọi là người, ở trên một tinh cầu khắc
khổ bội phần, để có thể đền bù tội lỗi nhanh chóng hơn.
Những tâm linh ở trái đất muốn tiến hóa lên những tầng cao, phải mất nhiều
công phu học hỏi nâng cao tần số rung động của mình, để không những lên cao mà
còn phóng mình sang tinh cầu khác. Cuộc viễn-du nầy khiến họ học hỏi được nhiều
về nhữ ng định luật của Vũ-trụ. Và khi lên đến tầng thứ bốn và thứ năm, thì có
thể ở trên nhiều tinh cầu cùng một lúc, vì khi đó với thức-giác cao, hồn có thể
phân thân ra nhiều nơi.
Cao hơn hết là tầng thứ sáu, linh hồn đã đạt tới toàn thiện, có thể hợp nhất
với Thượng-Ðế. Tất nhiên chúng tôi còn xa quá chưa thể biết được, nhưng được dạy
cho biết rằng khi một linh hồn gần đến mức toàn thiện, phải kiểm điểm lại tất cả
bao nhiêu đời đã qua, từ đời trước nhất, không còn gì vướng mắt nữa. Chúng tôi
chỉ được nghe nói thế thôi, những linh hồn đó không bao giờ quay ngược bánh xe
vận mệnh vòng trở lại nữa.
Sáu tầng trên đây có lẽ cũng là những giới nói trong kinh Phật.
Tầng thứ nhất là cõi Dương thế mà chúng ta đương sống, có thân hình vật
chất, có dục tính, thường gọi là hạ giới, kinh Phật gọi là Dục giới.
Tầng thứ hai là cõi âm, cõi của những linh hồn mới bước qua bên kia, gọi là
trung giới, kinh Phật gọi là Sắc giới.
Tầng thứ ba linh hồn không còn sắc chất, là Vô Sắc giới.
Tầng thứ tư chỉ còn ý nghĩ, là Hữu Tưởng giới.
Tầng thứ năm chỉ còn ánh sáng, là Vô Tưởng giới.
Tầng thứ sáu linh hồn đạt tới toàn thiện, là
Phi-Hữu-Tưởng-Phi-Vô-Tưởng-Giới, có lẽ là giới của các vị Giáo chủ: Phật, Chúa
..v.v..
Trên hết là Thượng Ðế, có thể gọi là tầng thứ bảy.
Ðó là lấy trí nhỏ mọn của tôi đoán phỏng như thế.
Sau hết, ông Ford nhắc lại rằng trong cõi trung-giới mà ông đương ở, không
có thời gian: Chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi tồn tại luôn luôn, vô thủy vô
chung. Chúng tôi có thể thấy một khoảng thời gian dài hơn người đời thấy rất
nhiều, nhưng vẫn không thể biết được đâu là khởi đầu đâu là tận cùng. Chúng tôi
chỉ hiểu biết rộng hơn người trần gian về mục tiêu của Thượng Ðế, nhưng chúng
tôi chưa phải là hoàn toàn sáng suốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét